Chuyên đề 1
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHỊ QUYẾT VỀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2030, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2045
Việt Nam là quốc gia biển, có lịch sử, truyền thống, văn hóa và quá trình dựng nước, giữ nước gắn liền với biển. Biển Đông có vị trí đặc biệt quan trọng về địa chiến lược, chính trị, kinh tế, tự nhiên đối với nước ta. Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 08-02-2007 của Hội nghị Trung ương 4 khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu tổng quát phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là chủ trương lớn, phù hợp với xu thế chung của thế giới và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Việc tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết là yêu cầu cấp thiết, nhằm đánh giá toàn diện, đầy đủ, khách quan và chính xác, chỉ ra những thành tựu hạn chế, yếu kém, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm; đồng thời, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, dự báo tình hình và bối cảnh làm căn cứ xây dựng và ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22-10-2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nghị quyết bao hàm đầy đủ ba trụ cột của phát triển bền vững là kinh tế, xã hội và môi trường, thể hiện ý chí, quyết tâm của Đảng, Nhà nước và nguyện vọng của Nhân dân.
I- ĐÁNH GIÁ 10 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 4 KHÓA X VỀ CHIẾN LƯỢC BIỂN VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
1. Thành tựu nổi bật
Qua 10 năm thực hiện Nghị quyết, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu cơ bản, quan trọng, tích cực:
- Công tác quán triệt, thể chế hóa Nghị quyết đã được triển khai tích cực. Nhận thức của hệ thống chính trị, toàn xã hội và kiều bào ta ở nước ngoài về biển, đảo được nâng lên. Tư duy hướng mạnh ra biển, phát huy tiềm năng, lợi thế của biển để phát triển đất nước đã được đổi mới.
- Trên biển, chủ quyền quốc gia được giữ vững, an ninh cơ bản được đảm bảo; thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân đã được xây dựng, chiến lược quốc phòng được điều chỉnh, mở rộng phòng thủ từ trong đất liền ra bảo vệ chủ quyền biển, đảo với nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều lực lượng theo nguyên tắc bảo vệ từ xa, từ sớm; các lực lượng tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh được thành lập, xây dựng. Nhiều lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, trở thành nòng cốt bảo vệ chủ quyền, an ninh, bảo đảm trật tự và thực thi pháp luật trên biển, bảo đảm an toàn cho người dân và các hoạt động kinh tế trên biển, khu vực ven biển.
- Công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, đảo được triển khai chủ động, toàn diện; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền lợi chính đáng của quốc gia - dân tộc, nâng cao vị thế đất nước; quan hệ hữu nghị hợp tác và tin cậy chính trị với các nước láng giềng, các đối tác lớn, quan trọng được mở rộng, phát triển; các tranh chấp, bất đồng trên biển được giải quyết và xử lý một cách chủ động và tích cực. Hợp tác quốc tế được triển khai ở các cấp, các ngành với nhiều đối tác đa dạng về hình thức và trải rộng trên các lĩnh vực, góp phần nâng cao năng lực quản lý, khai thác, sử dụng biển, bảo vệ môi trường và phòng, chống thiên tai.
- Hướng phát triển kinh tế - xã hội dựa vào tiềm năng, lợi thế của biển được hình thành. Các vùng biển, các địa phương có biển đã trở thành khu vực phát triển năng động, thu hút nguồn lực đầu tư trong nước và nước ngoài, tạo động lực phát triển, mở cửa, hội nhập quốc tế, với mức đóng góp vào GDP cả nước luôn đạt lên 60% trong giai đoạn 2007 - 2017. Kinh tế thuần biển tiếp tục tăng cường, chú trọng đến các ngành, lĩnh vực kinh tế mũi nhọn (khai thác chế biến dầu khí; kinh tế hàng hải; khai thác và chế biến hai san; du lịch và kinh tế hải đảo). Các khu kinh tế, khu công nghiệp gắn với hình thành chuỗi đô thị ven biển được phát triển. Trong thời gian ngắn, hạ tầng cơ sở đã được tập trung đầu tư, nâng cấp, kết nối giao thương trong nước và quốc tế. Đời sống văn hóa, xã hội, việc làm, thu nhập của người dân ven biển, các vùng biên và các đảo được nâng lên rõ rệt.
- Công tác nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển được thực hiện tích cực, bước đầu đã triển khai ở các vùng biển sâu, biển xa và vùng biển quốc tế liền kề. Đến năm 2017, hải đồ tỷ lệ 1:200.000 với khoảng 82% diện tích các vùng biển Việt Nam được thành lập; việc điều tra địa hình đáy biển khoảng 24,5% diện tích vùng biển Việt Nam ở các tỷ lệ từ l:500.000 đến l:50.000 đã hoàn thành; công nghệ tìm kiếm, thăm dò dầu khí trên biển cơ bản được làm chủ. Phát triển nguồn nhân lực biển đạt được một số kết quả. Công tác quản lý, khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên môi trường biển, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng được chú trọng.
- Thể chế, chính sách quản lý tổng hợp và thống nhất về biển, đảo được hình thành và bước đầu phát huy hiệu lực hiệu quả; Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam ở Trung ương và các Chi cục Biển và Hải đảo ở địa phương đã được thành lập.
2. Hạn chế, yếu kém
- Tư duy, nhận thức về phát triển bền vững biển chưa đầy đủ, toàn diện, công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức về một số nội dung Nghị quyết còn hạn chế, chưa tạo được sự đồng thuận chung cần thiết của toàn xã hội và kiều bào ta ở nước ngoài.
- Công tác bảo đảm an ninh, an toàn trên biển, trật tự an toàn xã hội ở các vùng ven biển gặp nhiều khó khăn. Hoạt động nghiên cứu, dự báo chiến lược để chủ động phòng ngừa, giải quyết, xử lý các tình huống tranh chấp, xung đột trên biển chưa theo kịp diễn biến nhanh, phức tạp của tình hình khu vực và thế giới.
- Các chương trình, dự án hợp tác quốc tế về biển, đảo vẫn còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng; thiếu sự điều phối thống nhất trong việc vận động, thu hút nguồn lực, hỗ trợ của quốc tế, chưa tận dụng hiệu quả tri thức và công nghệ tiên tiến về biển.
- Chưa phát huy tối đa lợi thế, tiềm năng là cửa ngõ vươn ra thế giới của các địa phương có biển; chưa tạo được chuỗi kết nối giữa các địa phương có biển và các địa phương không có biển.
- Một số mục tiêu như đóng góp của các ngành kinh tế thuần biển, các huyện ven biển vào GDP cả nước, thu nhập bình quân của người dân khu vực này1, kết nối toàn tuyến đường ven biển đường cao tốc Bắc - Nam, phát triển cảng biển mang tầm cỡ quốc tế chưa đạt được.
- Một số ngành kinh tế biển mũi nhọn như hàng hải, dầu khí, công nghiệp đóng tàu chưa tận dụng được cơ hội, các tiềm năng lợi thế để phát triển.
- Mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh; giữa kinh tế với bảo vệ môi trường chưa được gắn kết chặt chẽ, trong một số trường hợp còn xung đột. Chưa bảo đảm hài hòa giữa khai thác, sử dụng tài nguyên, môi trường biển với công tác bảo vệ, bảo tồn và phục hồi các hệ sinh thái biển, ven biển, ô nhiễm môi trường biển có lúc, có nơi vẫn còn diễn ra nghiêm trọng như sự cố môi trường biển tại bốn tỉnh miền Trung; ô nhiễm rác thải nhựa đại dương đã trở thành vấn đề cấp bách, mang tính toàn cầu; một số tài nguyên biển bị khai thác quá mức, đa dạng sinh học suy giảm; công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, biển xâm thực còn hạn chế.
- Nguồn nhân lực và đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ về biển chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng và cơ cấu; trình độ và năng lực khoa học, công nghệ và điều tra cơ bản về biển còn hạn chế, thua kém các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới, chưa thực sự là nhân tố then chốt trong phát triển bền vững biển. Cơ chế phối hợp trong quản lý nhà nước về biển và trong việc tổ chức thực hiện Nghị quyết còn hạn chế.
- Khoảng cách giàu nghèo của người dân ven biển ngày càng tăng. Việc gìn giữ giá trị, phát huy bản sắc văn hóa, xây dựng thiết chế văn hóa các vùng biển và ven biển chưa được quan tâm đúng mức, chưa hình thành văn hóa sinh thái biển.
3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém và bài học kinh nghiệm
a) Nguyên nhân khách quan
- Tình hình khu vực, quốc tế diễn biến phức tạp và nhanh hơn dự báo. Tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, việc bồi đắp, cải tạo, dẫn đến phá vỡ nguyên trạng tự nhiên trên diện rộng các đảo và gia tăng quân sự hóa khu vực Biển Đông của Trung Quốc, các nước lớn tăng cường can dự và cạnh tranh chiến lược ở Biển Đông và khu vực Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương; các nước ASEAN bị tác động, phân hóa trong vấn đề Biển Đông, đặt ra nhiều thách thức mới đối với chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của nước ta ở Biển Đông, ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế ở trên biển.
- Biến đôi khí hậu, nước biển dâng, mặt trái của toàn cầu hóa, dịch bệnh, khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 - 2009 và sự sụt giảm giá dầu thế giới đã tác động tiêu cực đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế biển của Việt Nam.
b) Nguyên nhân chủ quan
Quá trình nhận thức về phát triển bền vững biển và phương thức quản lý tổng hợp, thống nhất về biển dựa trên hệ sinh thái chưa theo kịp với yêu cầu phát triển và xu thế của thời đại.
- Một số mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đề ra còn bất cập, chưa khả thi do chưa được kịp thời cập nhật trước những diễn biến nhanh chóng của tình hình khu vực và thế giới, một sổ chỉ tiêu cao hơn khả năng cân đối nguồn lực và chưa phù hợp với điều kiện đất nước.
- Thể chế, chính sách về biển, đảo chưa đồng bộ, thiếu các quy định chi tiết khả thi; một sổ chủ trương lớn của Đảng chưa được thể chế hóa kịp thời.
Quy hoạch các ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ chưa đầy đủ, thiếu tổng thể, chưa khai thác tốt tiềm năng, lợi thế của biển, thiếu tính kết nối. Đầu tư phát triển kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng biển, đảo còn dàn trải, thiếu chiều sâu để tạo ra đột phá ở tầm quốc gia, liên vùng và từng địa phương.
- Đầu tư cho nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản, phát triển nguồn nhân lực biển còn rất hạn chế, thiếu trọng tâm, trọng điểm để hình thành các ngành khoa học mũi nhọn; công tác đào tạo, dạy nghề, chuyển đổi việc làm chưa được quan tâm đúng mức; hỗ trợ cho cư dân ven biển thiếu hiệu quả.
- Mô hình tổ chức của một số tập đoàn kinh tế về biển chưa phù hợp, còn có sự nóng vội, duy ý chí; công tác quản lý, kiểm tra, giám sát còn bị buông lỏng, để xảy ra sai phạm.
- Năng lực quản lý nhà nước về biển, đảo chưa đủ mạnh, thiếu sự tập trung, thống nhất; sự phân công, phân cấp chưa hợp lý; sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước chưa thực sự chặt chẽ, hiệu quả. Cơ sở vật chất phục vụ công tác quản lý biển, đảo còn nhiều hạn chế.
Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết trên một số lĩnh vực gặp nhiều khó khăn; nhiều nội dung của Nghị quyết có liên quan đến bí mật quốc gia, không được phổ biến rộng rãi, do đó chưa được các tầng lớp nhân dân nắm bắt đầy đủ để tạo sự đồng thuận xã hội và sự tham gia của toàn xã hội
c) Bài học kinh nghiệm
Qua 10 năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 09-02-2007, chúng ta có thể rút ra năm bài học chính:
Một là, phải thống nhất tư tưởng, nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.
Hai là, cần kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để giải quyết các vấn đề về Biển Đông dựa trên nguyên tắc độc lập, tự chủ, tạo dựng môi trường hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển, tôn trọng luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.
Ba là, phải lấy khoa học, công nghệ hiện đại, nguồn nhân lực chất lượng cao làm nhân tố đột phá trong quá trình vươn ra biển.
Bốn là, phải coi phát triển bền vững, phu hợp với quy luật tự nhiên, bảo đảm cân bằng sinh thái và hài hòa lợi ích giữa thế hệ hôm nay và các thế hệ tương lai là phương châm hành động trong thực hiện chiến lược biển.
Năm là, phải có tầm nhìn dài hạn và dự báo tình hình sát, đúng, xử lý kịp thời, nhạy bén và phối hợp đồng bộ khi có tình huống xảy ra.
II- BỐI CẢNH, TÌNH HÌNH VÀ SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH NGHỊ QUYẾT VỀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM
1. Bối cảnh, tình hình
a) Bối cảnh, tình hình quốc tế
- Chiếm phần lớn diện tích bề mặt trái đất, biển và đại dương có vai trò vô cùng quan trọng tác động mạnh mẽ đến đời sống và sự phát triển kinh tế - xã hội của loài người. Những năm gần đây, những thách thức toàn cầu, đặc biệt là ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, nước biển dâng đang đặt ra yêu cầu cấp thiết để các quốc gia phải chung tay hành động vì sự phát triển bền vững. Mục tiêu phát triển của Liên hợp quốc về bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương và tài nguyên biển đã trở thành thước đo phát triển của các quốc gia. Các nước có biển, từ các cường quốc như: Hoa Kỳ, Nga, Nhật Bản, các nước Châu Âu đến các nước đang phát triển đã đề ra những chiến lược, chính sách xuyên suốt và đề cao giá trị của biển và đại dương, hướng cửa ngõ kinh tế ra biển, dựa vào biển để phát triển.
- Sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, các hoạt động kinh tế - xã hội, gia tăng dân số đang tác động mạnh mẽ lên trái đất nói chung và đại dương nói riêng. Nhân loại đang đứng trước những thời cơ, vận hội và thách thức mới mang tính toàn cầu.
- Trong bối cảnh đó, hầu hết các nước đều đặt ra yêu cầu phát triển một nền kinh tế biển xanh, kinh tế sinh thái, kinh tế mới vì đại dương khỏe mạnh; nâng cao năng lực quản trị, phát triển kinh tế gắn liền với giữ vững chủ quyền và bảo đảm an ninh, an toàn trên biển; xây dựng văn hóa sinh thái biển; hài hòa giữa phát triển kinh tế với bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên.
- Nhiều quốc gia đã lấy khoa học - công nghệ tiên tiến và nguồn nhân lực chất lượng cao làm hạt nhân cho phát triển bền vững biển. Công tác điều tra cơ bản về biển được coi là nền tảng quan trọng cho hoạch định cơ chế, chính sách khai thác, bảo tồn và phát triển tài nguyên biển. Tính chất mở, xuyên biên giới của biển và đại dương đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ, toàn diện của các quốc gia trên thế giới để giải quyết các vấn đề về biển, đặc biệt là vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và bảo vệ môi trường.
- Tình hình chính trị quốc tế được dự báo sẽ tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, đặc biệt là sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Chiến lược xây dựng cường quốc hải dương, chiến lược “Vành đai và con đường", nhất là con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI và chiến lược phát triển đặc khu kinh tế ven biển Hải Nam; gia tăng quân sự hóa các đảo bồi đắp lên Biển Đông của Trung Quốc; chính sách "Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở" của Hoa Kỳ; sự bất đồng quan điểm và tranh chấp chủ quyền của các nước trên Biển Đông sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến môi trường hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và nước ta. Vấn đề toàn cầu hóa, chủ nghĩa bảo hộ, chiến tranh thương mại... vừa mang lại cơ hội, nhưng cũng tạo ra nhiều thách thức đối với phát triển biển, đảo.
b) Bối cảnh, tình hình trong nước
- Bên cạnh những chuyển biến tích cực về kinh tế xã hội và vị thế, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, nước ta tiếp tục phải đối mặt với những thách thức về ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.
- Xu thế ô nhiễm, suy thoái tài nguyên môi trường biển chưa được ngăn chặn; sự cố môi trường xảy ra tại các tỉnh miền Trung và các vấn đề về kinh tế, xã hội, môi trường tại các địa phương có biển đang tác động mạnh mẽ đến đời sống, sinh hoạt, sản xuất, an ninh trật tự của người dân cả nước. Các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng vấn đề chủ quyền biển, đảo, đất đai, môi trường, tôn giáo để kích động, chống phá Đảng và Nhà nước, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của nước ta. Hơn bao giờ hết, các vấn đề biển, đảo nhận được sự quan tâm của toàn xã hội.
2. Sự cần thiết ban hành Nghị quyết về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, biển có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, gắn bó mật thiết và ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường của nước ta. Sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiềm lực kinh tế biển của đất nước ta đã không ngừng lớn mạnh, phát triển với tốc độ khá nhanh và đã có những đóng góp quan trọng vào nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội của đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Việc thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 4 khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng nhưng cũng còn không ít hạn chế, yếu kém, một số mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp không khả thi, không còn phù hợp, trong khi tình hình trong nước và quốc tế có nhiều diễn biến vượt ngoài dự báo. Thời điểm kết thúc việc tổ chức thực hiện Nghị quyết vào năm 2020 đang đến gần. Nghị quyết số 09-NQ/TW có một số nội dung mang tính bí mật quốc gia nên có những hạn chế nhất định. Nghị quyết ban hành từ năm 2007, chưa cập nhật nhiều vấn đề mới của thời đại. Thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; các chủ trương mới của Đảng về đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, phát triển kinh tế tư nhân... cũng cần được cập nhật trong chiến lược phát triển biển.
Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, kế thừa thành tựu và khắc phục hạn chế, yếu kém trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước diễn biến phức tạp, để biến thách thức thành cơ hội, phù hợp với xu thế của thời đại, cần thiết ban hành một nghị quyết mới về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, bao hàm đầy đủ ba trụ cột của phát triển bền vững là kinh tế, xã hội và môi trường, thể hiện ý chí, quyết tâm của Đảng, Nhà nước và nguyện vọng của Nhân dân.
Nghị quyết này sẽ được công bố rộng rãi, huy động sức mạnh, nguồn lực của toàn xã hội, mở cửa hướng ra biển để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức đưa đất nước ta trở thành một quốc gia biển mạnh, hội nhập, phát triển bền vững và giữ vững chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
III- QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM
1. Quan điểm
- Thống nhất tư tưởng, nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong toàn Đảng dân và toàn quân. Biển là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tăng cường đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển. Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, là quyền và nghĩa vụ của mọi tổ chức, doanh nghiệp và người dân Việt Nam.
- Phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hòa giữa các hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, giữa bảo tồn và phát triển, giữa lợi ích của địa phương có biển và địa phương không có biển; tăng cường liên kết, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát huy tiềm năng, lợi thế của biển, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước.
- Giữ gìn giá trị, phát huy truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa biển đi đôi với xây dựng xã hội gắn kết, thân thiện với biển; bảo đảm quyền tham gia, hưởng lợi và trách nhiệm của người dân đối với phát triển bền vững kinh tế biển trên cơ sơ công bằng, bình đẳng, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
- Tăng cường quản lý tổng hợp, thống nhất tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển tự nhiên; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Đẩy mạnh đầu tư vào bảo tồn và phát triển giá trị đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái biển; bảo vệ tính toàn vẹn của hệ sinh thái từ đất liền ra biển. Gắn bảo vệ môi trường biển với phòng ngừa, ngăn chặn ô nhiễm, sự cố môi trường, tăng cường hợp tác khu vực và toàn cầu.
- Lấy khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao làm nhân tố đột phá, ưu tiên đầu tư ngân sách nhà nước cho công tác nghiên cứu, điều tra cơ bản, đào tạo nguồn nhân lực về biển; kết hợp huy động các nguồn lực trong và ngoài nước. Chủ động, nâng cao hiệu quả hội nhập, hợp tác quốc tế, ưu tiên thu hút các nhà đầu tư chiến lược hàng đầu thế giới có công nghệ nguồn, trình độ quản lý tiên tiến trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
2. Mục tiêu đến năm 2030
a) Mục tiêu tổng quát
Đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hóa sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng. Những thành tựu khoa học mới, tiên tiến, hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển.
b) Mục tiêu cụ thể
- Các chỉ tiêu tổng hợp: Các chỉ tiêu về quản trị biển và đại dương, quản lý vùng bờ theo chuẩn mực quốc tế đạt mức thuộc nhóm nước trung bình cao trở lên trên thế giới. Hầu hết các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội liên quan đến biển, đảo được thực hiện theo nguyên tắc quản lý tổng hợp phù hợp với hệ sinh thái biển.
- Về kinh tế biển: Các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP cả nước; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65 - 70% GDP cả nước. Các ngành kinh tế biển phát triển bền vững theo các chuẩn mực quốc tế, kiểm soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển.
- Về xã hội: Chỉ số phát triển con người (HDI) của các tỉnh, thành phố ven biển cao hơn mức trung bình của cả nước; thu nhập bình quân đầu người của các tỉnh, thành phố ven biển gấp từ 1,2 lần trở lên so với thu nhập bình quân của cả nước. Các đảo có người dân sinh sống có hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản đầy đủ, đặc biệt là điện, nước ngọt, thông tin liên lạc, y tế, giáo dục...
- Về khoa học, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực biển: Tiếp cận, tận dụng tối đa thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến và thuộc nhóm nước dẫn đầu trong ASEAN, có một số lĩnh vực khoa học và công nghệ biển đạt trình độ tiên tiến, hiện đại trên thế giới. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực biển, hình thành đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ biển có năng lực, trình độ cao.
- Về môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng:
Đánh giá được tiềm năng, giá trị các tài nguyên biển quan trọng. Tôi thiểu 50% diện tích vùng biển Việt Nam được điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển ở tỷ lệ bản đồ 1:500.000 và điều tra tỷ lệ lớn ở một số vùng trọng điểm. Thiết lập bộ cơ sở dữ liệu số hóa về biển, đảo, bảo đảm tính tích hợp, chia sẻ và cập nhật.
Ngăn ngừa, kiểm soát và giảm đáng kể ô nhiễm môi trường biển; tiên phong trong khu vực về giảm thiểu chất thải nhựa đại dương, ở các tỉnh, thành phố ven biển, 100% chất thải nguy hại, chất thải rắn sinh hoạt được thu gom và xử lý đạt quy chuẩn môi trường; 100% khu kinh tế, khu công nghiệp và khu đô thị ven biển được quy hoạch, xây dựng theo hướng bền vững, sinh thái, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đáp ứng các quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường.
Quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo; tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia; phục hồi diện tích rừng ngập mặn ven biển tối thiểu bằng mức năm 2000. Năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, động đất, sóng thần, quan trắc, giám sát môi trường biển, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, bao gồm cả thông qua việc ứng dụng công nghệ vũ trụ và trí tuệ nhân tạo, đạt trình độ ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực. Có biện pháp phòng, tránh, ngăn chặn, hạn chế tác động của triều cường, xâm nhập mặn, xói lở bờ biển.
3. Tầm nhìn đến năm 2045
Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn; kinh tế biển đóng góp quan trọng vào nền kinh tế đất nước, góp phần xây dựng nước ta thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tham gia chủ động và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương.
IV- MỘT SỐ CHỦ TRƯƠNG LỚN VÀ KHÂU ĐỘT PHÁ
1. Một số chủ trương lớn
a) Phát triển kinh tế biển và ven biển
- Phát triển các ngành kinh tế biển
Đến năm 2030, phát triển thành công, đột phá về các ngành kinh tế biển theo thứ tự ưu tiên: (l) Du lịch và dịch vụ biển; (2) Kinh tế hàng hải; (3) Khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác; (4) Nuôi trồng và khai thác hải sản; (5) Công nghiệp ven biển; (6) Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới. Cụ thể:
+ Du lịch và dịch vụ biển: Chú trọng đầu tư hạ tầng du lịch; khuyến khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch sinh thái, thám hiểm khoa học, du lịch cộng đồng, các khu du lịch nghỉ dưỡng biển chất lượng cao tại các vùng ven biển; xây dựng, phát triển, đa dạng hóa các sản phẩm, chuỗi sản phẩm, thương hiệu du lịch biển đẳng cấp quốc tế trên cơ sở bao tồn đa dạng sinh học, phát huy giá trị di sản thiên nhiên, văn hóa, lịch sử đặc sắc của các vùng, miền, kết nối với các tuyến du lịch quốc tế để Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của thế giới. Nghiên cứu thí điểm phát triển du lịch xa các đảo, vùng biển xa bờ. Tăng cường năng lực tìm kiếm cữu hộ, cứu nạn; đẩy mạnh các hoạt động thám hiểm khoa học; chú trọng công tác giáo dục, y tế biển... Hỗ trợ, tạo điều kiện để người dân ven biển chuyển đổi nghề từ các hoạt động có nguy cơ xâm hại, tác động tiêu cực đến biển sang bảo vệ, bảo tồn, tạo sinh kế bền vững, việc làm mới ổn định, nâng cao thu nhập cho người dân.
+ Kinh tế hàng hải: Trọng tâm là khai thác có hiệu quả các cảng biển và dịch vụ vận tải biển. Quy hoạch, xây dựng, tổ chức khai thác đồng bộ, có hiệu quả các cảng biển tổng hợp, cảng trung chuyển quốc tế, cảng chuyên dùng gắn với các dịch vụ hỗ trọi xây dựng hoàn thiện hạ tầng logistics và các tuyến đường giao thông, kết nối liên thông các cảng biển với các vùng, miền, địa phương trong nước và quốc tế. Đẩy mạnh phát triển đội tàu vận tải biển với cơ cấu hợp lý, ứng dụng công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu thị trường vận tải nội địa, tham gia sâu vào các chuỗi cung ứng vận tải, từng bước gia tăng, chiếm lĩnh thị phần quốc tế.
+ Khai thác dầu khí và các tài nguyên, khoáng sản biển khác: Nâng cao năng lực của ngành dầu khí và các ngành tài nguyên, khoáng sản biển khác; từng bước làm chủ công tác tìm kiếm, thăm dò, khai thác, đáp ứng nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong thời kỳ mới. Đẩy mạnh công tác tìm kiếm, thăm dò, gia tăng trữ lượng dầu khí; nghiên cứu, thăm dò các bể trầm tích mới, các dạng hydrocarbon phi truyền thống; gắn việc tìm kiếm, thăm dò dầu khí với điều tra, khảo sát, đánh giá tiềm năng các tài nguyên, khoáng sản biển khác, khoáng sản biển sâu, đặc biệt là các khoáng san có trữ lượng lớn, giá trị cao, có ý nghĩa chiến lược. Nâng cao hiệu quả khai thác các tài nguyên khoáng sản biển gắn với chế biến sâu; kết hợp hài hòa giữa khai thác, chế biến với bao vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học biển.
+ Nuôi trồng và khai thác hải sản: Chuyển từ nuôi trồng, khai thác hải sản theo phương thức truyền thống sang công nghiệp, ứng dụng công nghệ cao. Tổ chức lại hoạt động khai thác hải san theo hướng giảm khai thác gần bờ đẩy mạnh khai thác tại các vùng biển xa bờ và viễn dương phù hợp với từng vùng biển và khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển, đi đôi với thực hiện đồng bộ, có hiệu quả công tác đào tạo, chuyển đổi nghệ cho ngư dân. Thúc đẩy các hoạt động nuôi trồng, khai thác hải sản bền vững, tăng cường bảo vệ, tái sinh nguồn lợi hải sản, nghiêm cấm các hoạt động khai thác mang tính tận diệt. Hiện đại hóa công tác quản lý nghề cá trên biển; đẩy mạnh liên kết sản xuất theo hình thức tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; xây dựng một số doanh nghiệp mạnh tham gia khai thác hải sản xa bờ và hợp tác khai thác viễn dương. Đầu tư nâng cấp các cảng cá, bến cá, khu neo đậu tàu thuyền, tổ chức tốt dịch vụ hậu cần nghề cá. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong nuôi trồng, khai thác, bao quản, chế biến hải san, tạo ra các sản phẩm chủ lực, có chất lượng, giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường.
+ Công nghiệp ven biển: Phải dựa trên cơ sở quy hoạch, cân nhắc lợi thế về điều kiện tự nhiên của từng vùng ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao thân thiện với môi trường, công nghiệp nền tảng, công nghệ nguồn. Phát triển hợp lý các ngành sửa chữa và đóng tàu, lọc hóa dầu, năng lượng, cơ khí chế tạo, công nghiệp chế biến, công nghiệp phụ trợ.
+ Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới: Thúc đẩy đầu tư xây dựng, khai thác điện gió, điện mặt trời và các dạng nâng lượng tái tạo khác. Phát triển ngành chế tạo thiết bị phục vụ ngành công nghiệp năng lượng tái tạo, tiến tới làm chủ một số công nghệ, thiết kế, chế tạo và sản xuất thiết bị; ưu tiên đầu tư phát triển năng lượng tái tạo trên các đảo phục vụ sản xuất, sinh hoạt, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Quan tâm phát triển một số ngành kinh tế dựa vào khai thác tài nguyên đa dạng sinh học biển như dược liệu biển, nuôi trồng và chế biến rong, tảo, cỏ biển...
- Phát biển đồng bộ, từng bước hình thành khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị sinh thái ven biển
Tập trung xây dựng và nhân rộng các mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp sinh thái ven biển gắn với hình thành và phát triển các trung tâm kinh tế biển mạnh. Khu kinh tế ven biển phải đóng vai trò chủ đạo trong phát triển vùng và gắn kết liên vùng. Đổi mới tư duy trong xây dựng và thực hiện các quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống đô thị ven biển có kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ, hiện đại theo mô hình, tiêu chí tăng trưởng xanh, đô thị thông minh. Đẩy nhanh xây dựng hoàn thiện kết cấu hạ tầng các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển theo hướng tiếp cận mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp sinh thái, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư, thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; giải quyết tốt vấn đề môi trường, xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.
b) Phát triển các vùng biển dựa trên lợi thế về điều kiện tự nhiên, hài hòa giữa bảo tồn và phát triển
Quy hoạch không gian biển theo các vùng bảo vệ - bảo tồn, vùng đệm và vùng phát triển kinh tế - xã hội để phát triển bền vững kinh tế biển trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, bản sắc văn hóa, tính đa dạng của hệ sinh thái, bảo đảm tính liên kết vùng, giữa địa phương có biển và không có biển.
- Vùng biển và ven biển phía Bắc (Quảng Ninh - Ninh Bình): Tiếp tục xây dựng khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh trở thành trung tâm kinh tế biển; là cửa ngõ, động lực phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ gắn với cảng quốc tế Lạch Huyện, phát triển Quảng Ninh trở thành trung tâm du lịch quốc gia kết nối với các trung tâm du lịch quốc tế lớn của khu vực và thế giới.
- Vùng biển và ven biển Bắc Trung Bộ, duyên hải Trung Bộ (Thanh Hóa - Bình Thuận): Phát triển các cảng biển nước sâu trung chuyển quốc tế, cảng biển chuyên dụng gắn với các khu liên hợp công nghiệp, dầu khí, điện, năng lượng tái tạo, công nghiệp sạch; phát triển các trung tâm du lịch lớn; nuôi trồng, khai thác, chế biến hải sản, dịch vụ hậu cần và hạ tầng nghề cá.
- Vùng biển và ven biển Đông Nam Bộ (Bà Rịa - Vũng Tàu - Thành phố Hồ Chí Minh): Phát triển cảng biển container quốc tế, dịch vụ hậu cần cảng biển, dịch vụ bảo đảm an toàn hàng hải, công nghiệp, khai thác, chế biến dầu khí, công nghiệp hỗ trợ và các dịch vụ ngành dầu khí.
- Vùng biển và ven biển Tây Nam Bộ (Tiền Giang - Cà Mau - Kiên Giang):Tập trung xây dựng và phát triển Phú Quốc thành trung tâm dịch vụ, du lịch sinh thái biển mạnh mang tầm quốc tế, phát triển công nghiệp khí, chế biến khí, điện khí, năng lượng tái tạo, nuôi trồng, khai thác hải sản, dịch vụ hậu cần, hạ tầng nghề cá; kết nối với các trung tâm kinh tế lớn trong khu vực và thế giới.
c) Bảo vệ môi trường, bảo tồn phát triển bền vững đa dạng sinh học biển, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu nước biển dâng và phòng, chống thiên tai
- Mở rộng diện tích, thành lập mới các khu vực bảo tồn biển trên cơ sở quy hoạch không gian biển quốc gia; chú trọng bảo tồn đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái, đặc biệt là các rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển; bảo đảm tính toàn vẹn và mối quan hệ tự nhiên giữa các hệ sinh thái đất liền và biển.
- Xây dựng các tiêu chí, yêu cầu kỹ thuật nghiêm ngặt theo chuẩn quốc tế về môi trường đối với các dự án đầu tư có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao khu vực ven biển, bảo đảm phòng ngừa, ngăn chặn không để xảy ra các sự cố gây ô nhiễm môi trường, giảm thiểu và xử lý hiệu quả các nguồn gây ô nhiễm. Đầu tư xây dựng, củng cố lực lượng, trang thiết bị giám sát, cảnh báo tự động về chất lượng môi trường, ứng phó với sự cố môi trường, hóa chất độc hại trên biển; quản lý rác thai biển, nhất là rác thải nhựa; cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường biển.
- Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo, chủ động phòng, tránh và giảm nhẹ thiệt hại thiên tai, động đất, sóng thần, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng trên cơ sở ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến, đặc biệt là áp dụng các mô hình thông minh có khả năng thích ứng chống chịu với thiên tai và tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh các biện pháp phòng, chống biển xâm thực, xói lở bờ biển, ngập lụt, xâm nhập mặn...
d) Nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng văn hóa biển, xã hội gần bó thân thiện với biển
- Nâng cao đời sống, bảo đảm an ninh, an toàn cho dân cư vùng ven biển, trên đảo và những người lao động trên biển.
- Chú trọng phát triển các thiết chế văn hóa cho cộng đồng dân cư biển và ven biển; phát huy bản sắc giá trị lịch sử và văn hóa dân tộc tự thúc tốt đẹp trong ứng xử với biển, coi đây là nền tảng quan trọng để xây dựng văn hóa biển. Bảo tồn không gian văn hóa, kiến trúc và di sản thiên nhiên.
- Nâng cao nhận thức về biển và đại dương, xây dựng xã hội, ý thức, lối sống, hành vi văn hóa gắn bó, thân thiện với biển. Phát huy tinh thần tương thân tương ái của cộng đồng dân cư vùng biển, ven biển.
- Bảo đảm quyền tiếp cận, tham gia, hưởng lợi và trách nhiệm của người dân đối với biển một cách công bằng, bình đẳng.
đ) Bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế
- Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng chính quy tinh nhuệ theo hướng hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng thực thi pháp luật trên biển; không ngừng củng cổ, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân khu vực biển; bảo đảm năng lực xử lý tốt các tình huống trên biển, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia trên các vùng biển. Nâng cao năng lực ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu lợi dụng các vấn đề về biển, đảo để chống phá. Kiên trì xây dựng và duy trì môi trường hòa bình, ổn định và trật tự pháp lý trên biển, tạo cơ sở cho việc khai thác và sử dụng biển an toàn, hiệu quả.
- Tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế, chủ động tham gia và đóng góp tích cực vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong việc bảo tồn, sử dụng bền vững biển và đại dương; tranh thủ tối đa các nguồn lực, sự hỗ trợ quốc tế để nâng cao năng lực quản lý và khai thác biển, trong đó chú trọng các lĩnh vực khoa học, công nghệ, tri thức và đào tạo nguồn nhân lực.
2. Một số khâu đột phá
- Hoàn thiện thể chế phát triển bền vững kinh tế biển, ưu tiên hoàn thiện hành lang pháp lý, đổi mới, phát triển mô hình tăng trưởng xanh, bảo vệ môi trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh quốc tế của các ngành kinh tế biển, các vùng biển, ven biển; hoàn thiện cơ chế quản lý tổng hợp và thống nhất về biển. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung và lập mới các quy hoạch liên quan đến biển, bảo đảm tính liên kết, đồng bộ giữa các ngành, địa phương.
- Phát triển khoa học, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực biển chất lượng cao, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, tận dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, khoa học, công nghệ mới, thu hút chuyên gia, nhà khoa học hàng đầu, nhân lực chất lượng cao.
- Phát triển kết cấu hạ tầng đa mục tiêu, đồng bộ, mạng lưới giao thông kết nối các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, các khu công nghiệp khu đô thị, các vùng biển với các cảng biển dựa trên hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, kết nối chiến lược Bắc - Nam, Đông - Tây giữa các vùng trong nước và với quốc tế.
V- CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phát triển bền vững biển, tạo đồng thuận trong toàn xã hội.
- Nâng cao nhận thức, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền trong tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện các chủ trương, giải pháp về phát triển bền vững kinh tế biển.
- Nâng cao hiệu quả, đa dạng hóa các hình thức, nội dung tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về biển, đảo, chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam trong toàn hệ thống chính trị, trong Nhân dân, đồng bào ta ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế, khẳng định chủ trương nhất quán của Việt Nam là duy trì môi trường hoà bình, ổn định, tôn trọng luật pháp quốc tế trên biển.
- Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức đoàn thể các cấp trong công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân giám sát và phản biện xã hội việc thực hiện Nghị quyết.
2. Hoàn thiện thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về phát triển bền vững kinh tế biển
- Rà soát, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về biển theo hướng phát triển bền vững, bảo đảm tính khả thi, đồng bộ, thống nhất, phù hợp với chuẩn mực luật pháp và điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Tạo hành lang pháp lý thuận lợi để huy động các nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư xây dựng hạ tầng, phát triển khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực và chuyển giao tri thức về biển. Tích cực tham gia và chủ động thúc đẩy hình thành cơ chế toàn cầu và khu vực liên quan đến biển và đại dương.
- Kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển từ Trung ương đến địa phương bảo đảm hiện đại, đồng bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, chuyên môn cao. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan, giữa Trung ương với địa phương về công tác biển, đảo. Kiện toàn cơ quan điều phối liên ngành chỉ đạo thống nhất việc thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu; tăng cường năng lực cho Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ là cơ quan thường trực giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển, đảo.
- Kiện toàn mô hình tổ chức, nâng cao năng lực quản lý các đảo, quần đảo và vùng ven biển. Thực hiện bố trí dân cư trên các đao gắn với chuyển đổi mô hình tổ chức sản xuất theo hướng thân thiện với biển và môi trường biển.
- Rà soát, bổ sung và xây dựng mới đồng bộ các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan đến biển đảo theo hướng quản lý tổng hợp, phù hợp với hệ sinh thái biển bảo đảm sự gắn kết hài hòa, đồng bộ giữa bảo tồn và phát triển các vùng đất liền, vùng ven bờ, vùng đặc quyển kinh tế và thềm lục địa. Khẩn trương xây dựng Quy hoạch không gian biển quốc gia, Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ.
3. Phát triển khoa học, công nghệ và tăng cường điều tra cơ bản biển
Thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến; đẩy mạnh nghiên cứu, xác lập luận cứ khoa học cho việc hoạch định, hoàn thiện chính sách, pháp luật về phát triển bền vững kinh tế biển.
- Ưu tiên đầu tư cho công tác điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực biển; hình thành các trung tâm nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học biển, khai thác đáy biển sâu, công nghệ vũ trụ trong giám sát biển đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. Đánh giá tiềm năng và lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên, hệ sinh thái và các ngành, lĩnh vực kinh tế biển như hàng hải, khai thác, nuôi trồng, chế biến thủy, hải sản, năng lượng tái tạo thông tin và công nghệ số, sinh dược học biển, thiết bị tự vận hành ngầm...
- Xây dựng và thực hiện có hiệu quả Chương trình trọng điểm điều tra cơ ban tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong điều tra, nghiên cứu ở các vùng biển quốc tế. Đầu tư đội tàu nghiên cứu biển tiên tiến, thiết bị ngầm dưới biển có khả năng nghiên cứu ở các vùng biển sâu.
4. Đẩy mạnh giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực biển
Tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức, kiến thức, hiểu biết về biển, đại dương, kỹ năng sinh tồn, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phòng, tránh thiên tai cho học sinh, sinh viên trong tất cả các bậc học, cấp học.
- Phát triển nguồn nhân lực biển chất lượng cao phù hợp với nhu cầu thị trường; có cơ chế, chính sách đặc biệt thu hút nhân tài, từng bước hình thành đội ngũ các nhà quản lý, nhà khoa học, chuyên gia đạt trình độ quốc tế, có chuyên môn sâu về biển và đại dương.
- Có cơ chế hỗ trợ, nâng cao chất lượng đào tạo, phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo nguồn nhân lực biển đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. Thực hiện có hiệu quả công tác đào tạo nghề, đáp ứng yêu cầu lao động của các ngành kinh tế biển và việc chuyển đổi nghề của người dân.
5. Tăng cường năng lực bảo đảm quốc phòng, an ninh, thực thi pháp luật trên biển
- Hoàn thiện tổ chức các lực lượng bảo đảm quốc phòng, an ninh, thực thi pháp luật trên biển. Đầu tư trang thiết bị hiện đại, chú trọng đào tạo nhân lực, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật và tăng cường khả năng hiệp đồng, tác chiến của các lực lượng tham gia bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các quyền lợi chính đáng, hợp pháp của đất nước. Xây dựng lực lượng công an khu vực ven biển, đảo, các khu đô thị, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển vững mạnh, làm nòng cốt bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội vùng biển, đảo.
- Nâng cao năng lực hoạt động của các lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ phòng, tránh và giảm nhẹ thiệt hại thiên tai, cứu nạn, cứu hộ, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng khu vực biển, đảo; bảo đảm an ninh, an toàn cho dân cư, người lao động và các hoạt động kinh tế khu vực biển; xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vùng biển, đảo.
6. Chủ động tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển
- Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa; chủ động, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền và các lợi ích hợp pháp, chính đáng của quốc gia trên biên, đồng thời chủ động, tích cực giải quyết, xử lý các tranh chấp, bất đồng trên Biển Đông bằng các biện pháp hoà bình trên cơ sơ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển.
- Tăng cường quan hệ với các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các nước bạn bè truyền thống, các nước có tiềm lực về biển, các nước có chung lợi ích trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đăng, cùng có lợi và phù hợp với luật pháp quốc tế. Chủ động, tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế và khu vực, nhất là các hoạt động hợp tác biển trong khuôn khổ ASEAN; phối hợp với các nước thực hiện đầy đủ và hiệu quả. Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC), thúc đẩy ký Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC).
- Thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế về quản lý, sử dụng, bảo tồn bền vững biển, đại dương; thực hiện nghiêm túc các điều ước, thoa thuận khu vực và quốc tế về biển, đại dương mà Việt Nam đã tham gia; nghiên cứu tham gia các điều ước quốc tế quan trọng về biển trước mắt ưu tiên các lĩnh vực về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học biển; đẩy mạnh tham gia nghiên cứu khoa học, khảo sát, thăm dò khai thác tài nguyên tại các vùng biển quốc tế. Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác, tranh thủ sự hỗ trợ của các đối tác, các tổ chức quốc tế và khu vực để phát triển nguồn nhân lực, hạ tầng cơ sở vùng biển, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại vào các ngành kinh tế biển, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
7. Huy động nguồn lực, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cho phát triển bền vững biển, xây dựng các tập đoàn kinh tế biển mạnh
- Đẩy mạnh thu hút nguồn lực từ các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Chủ động thu hút các nhà đầu tư lớn, có công nghệ nguồn, trình độ quản lý tiên tiến từ các nước phát triển. Ưu tiên đầu tư ngân sách nhà nước cho phát triển các huyện đảo, xã đảo tiền tiêu, xa bờ; xã hội hóa đầu tư kết cấu hạ tầng biển, đảo, các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển.
- Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các tập đoàn kinh tế biển mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh trên biển, đặc biệt là ở các vùng biển xa bờ, viễn dương. Tiếp tục cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước thuộc các ngành kinh tế biển, bảo đảm nâng cao năng lực quản trị, hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh.
VI – TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Các tỉnh ủy, thành ủy, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương tổ chức học tập, quán triệt sâu sắc nội dung Nghị quyết; xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch hành động với các mục tiêu, tiêu chí, nhiệm vụ, giải pháp, nguồn lực, cơ chế kiểm tra, giám sát, cơ quan chịu trách nhiệm và lộ trình chi tiết để cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết trong phạm vi trách nhiệm của cơ quan, tổ chức mình, tăng cường lãnh đạo, tạo sự thống nhất cả về nhận thức và hành động trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết.
2. Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo công tác xây dựng luật, pháp lệnh, ưu tiên các dự án luật trực tiếp phục vụ triển khai thực hiện Nghị quyết; tăng cường giám sát của Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội đối với phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam.